Công cụ điều chỉnh lãi suất của Fed từ sau khủng hoảng tài chính đến nay
Về cơ bản, sau khủng hoảng tài chính 2008 cho đến quyết định
tăng lãi suất đầu tiên sau 6 năm giữ mức lãi suất ở gần 0% trong năm 2015, Fed
sử dụng 3 công cụ chính để thi hành chính sách điều chỉnh lãi suất.
1.1.2.1
Nghiệp vụ thị trường mở:
Fed mua vào (bán ra) trái phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp
nhằm tác động vào cơ số tiền, từ đó tác động đến lãi suất trên thị trường theo
ba cơ chế. Thứ nhất, Fed mua vào trái
phiếu trên thị trường thứ cấp sẽ ngay lập tức làm tăng dự trữ của các NHTM phát
hành trái phiếu, dẫn đến làm tăng lượng tiền cung ứng, tăng khả năng cho vay và
cung cấp tín dụng, giảm lãi suất cho vay thương mại. Thứ hai, khi vốn khả dụng của NHTM mại tăng lên do tác động của
nghiệp vụ thị trường mở, mức cung vốn trên thị trường liên ngân hàng tăng. Do
đó, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm. Thứ ba, nghiệp vụ thị trường mở ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả trái
phiếu kho bạc. Khi Fed bán ra trái phiếu, làm cung trái phiếu tăng, dẫn đến giá
trái phiếu giảm, lãi suất tăng (mức sinh lời tăng). Khi đó để tránh tình trạng
phi trung gian hóa (tình trạng người gửi tiền rút tiền từ NHTM để mua trái phiếu),
NHTM phải tăng lãi suất.[1]
Nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ cơ bản và hữu hiệu
nhất trong số các công cụ chính sách tiền tệ của Fed do không có độ trễ chính
sách[2] và tác động trực tiếp đến
thanh khoản trên thị trường. Trong giai đoạn 2009-2014, khi Fed thực thi chính
sách tiền tệ nới lỏng, đây là công cụ được sử dụng chủ yếu.
Tuy nhiên, thông thường Fed không sử dụng công cụ nghiệp vụ
thị trường mở theo định nghĩa đơn thuần là mua và bán trực tiếp trái phiếu trên
thị trường thứ cấp, thay vào đó hợp đồng mua lại (repo) được sử dụng rộng rãi
hơn cả. Hợp đồng mua lại là hợp đồng mua bán chứng khoán gồm hai bước: mua và
mua lại chứng khoán có giá và ngày thực hiện mua lại xác định tại thời điểm ký
kết hợp đồng. Chênh lệch giá giữa hai bước trong giao dịch xác định lãi suất
cho vay. Hợp đồng repo có tính chất pháp lý tương đương một thỏa thuận mua bán
chứng khoán, và có tính kinh tế tương đương một khoản vay thế chấp. Đối với người
bán chứng khoán (nhận tiền), giao dịch được gọi là repo. Đối với người mua chứng
khoán (cho vay tiền), giao dịch được gọi là repo đảo ngược.[3]
Cụ thể, khi Fed muốn nới rộng thanh khoản trên thị trường, Fed
tham gia vào các hợp đồng repo; ngược lại khi fed muốn thắt chặt thanh khoản
trên thị trường, Fed thực hiện hợp đồng repo đảo ngược. Đặc biệt sau gói chính
sách nới lỏng tiền tệ và nhằm mục tiêu làm tăng lãi suất, Fed sử dụng chủ yếu hợp
đồng repo đảo ngược. [4]Fed bán chứng khoán cho các
nhà đầu tư, và đồng ý mua lại trong tương lai. Điều đó cũng có nghĩa là, Fed
vay tiền từ các nhà đầu tư và dùng số chứng khoán đó làm tài sản đảm bảo. Chênh
lệch giá mua đi và mua lại chứng khoán xác định lãi suất cho vay sàn trên thị
trường do nhà đầu tư sẽ không cho NHTM hoặc một đối tác khác vay với lãi suất
thấp hơn lãi suất mà Fed trả cho họ do Fed là đối tác có độ tín nhiệm cao nhất,
được chính phủ hậu thuẫn.
1.1.2.2.
Yêu cầu dự trữ bắt buộc
Fed quy định một tỷ lệ dữ trữ bắt buộc tại các NHTM mà không
được sử dụng để cho vay hoặc bất kỳ một hoạt động nào khác. Như vậy, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc ảnh hưởng đến thanh khoản có sẵn trên thị trường vốn liên bang (thị
trường vốn liên ngân hàng).[5] Công cụ này hiếm khi được
sử dụng do không có sự thay đổi nào kể từ năm 1992, tuy nhiên nó đóng vai trò
quan trọng khi mà Fed thực hiện lệnh bán trên thị trường mở, khối lượng tiền
trong thị trường trở nên khan hiếm trong khi NHTM vẫn phải thực hiện yêu cầu dự
trữ bắt buộc. Do đó, tác động làm tăng lãi suất liên ngân hàng và đẩy chi phí
đi vay của toàn nền kinh tế.
1.1.2.3.
Lãi suất dự trữ dư thừa (Interest rate
on excess reserves)
Lãi suất dự trữ dư thừa hay còn được gọi tắt là lãi suất IOER
là khoản lãi mà Fed trả cho các ngân hàng trên số tiền dôi ra so với yêu cầu. Trước khủng
hoảng tài chính 2008, Fed
không trả lãi suất dư thừa. Tuy nhiên trong năm 2008, Fed bắt đầu trả lãi suất
dư thừa ở mức 0,25%. Khi đó, NHTM sẽ không có thiên hướng cho vay ở mức lãi suất
dưới mức lãi suất IOER vì họ có thể gửi tiền tại Fed và hưởng mức lãi suất cao
hơn cho phần gửi thặng dư. Do đó, lãi suất IOER tăng làm tăng lãi suất liên
ngân hàng.[6]
[1]
Ths Phan Anh Tuấn, chương 4,
giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, tr 100
[3]
Tobias Adrian et al., “Repo and Securities Lending,” Federal Reserve Bank of
New York, Staff Report no. 529, December 2011
[4]
http://www.economist.com/blogs/economist-explains/2015/12/economist-explains-10 truy cập ngày 05/04/2016
[6]
http://www.cnbc.com/2015/12/15/heres-how-the-fed-actually-raises-interest-rates.html truy cập ngày 05/04/2016